Dưới ánh nắng gay gắt của sa mạc, những tên lính đánh thuê Sandin vác ngang vai thanh đao lớn, lê bước trên những ngọn đồi cát mênh mông, mù mịt gió bụi. Bọn chúng đang hộ tống từng đoàn xe ngựa cồng kềnh dài vô tận từ Trung Địa đến vùng chiến tuyến. Vết bánh xe ngoằn ngoèo vắt lên những ngọn đồi như một con rắn đang trườn mình qua biển cát sa mạc. Bên trên, những con tàu chiến đấu khổng lồ chở tù binh bay chậm rãi như đám mây lớn có cánh, lướt qua những hoang mạc khô cằn đang phơi mình. Nơi trước đây đã từng là một vùng mỏ khai thác đá mặt trời trù phú, giờ chỉ còn là một vùng đất hoang sơ, phơi mình dưới ánh nắng. Những chiếc tàu ấy áp giải tù binh về Hải Địa, nơi đang rất cần nguồn lao động cho việc khai thác đá mặt trời, phục vụ cho quân đội của Giáo Hội ở chiến tuyến, mỏ Miranest là một trong những nơi tiếp nhận những tù binh cải tạo ấy.
Từng tán cây shawari mang trên mình một màu vàng của nắng hạ đan xen là bóng của những chiếc lá xanh ngawts phản phớt, rũ xuống sát đất. Người dân nơi đây trồng loại cây này ven khắp các khu mỏ vừa để lấy ít bóng râm vừa có thể dùng nhựa cây như một thức uống tạm khi phụ mỏ chậm trễ trong việc mang nước tới. Đất mỏ gần biển nhưng rất khô hạn, khắc nghiệt, ban ngày thì nóng nực, nắng gắt như thiêu như đốt, đêm đến thì lạnh thấu xương, Miranest cũng không phải ngoại lệ, ấy mà loại cây này vẫn có thể vươn mầm, phát triển, đem lại cho người dân ở đây bóng râm và nước uống. Chỉ cần với một cái dùi nhỏ và một cái phễu, nhẹ nhàng đục một lỗ nhỏ sâu vào bên trong thân cây, đợi một lúc, nhựa cây sẽ chảy ra phễu. Uống thứ nhựa cây đó sẽ giúp cơn khát được xoa dịu phần nào dưới cái tiết trời nóng bức vào ban ngày của nơi đây, nhựa của nó có vị ngòn ngọt đối với những cây già và lạc vị với những cây còn non.
Khi cơn khát và cái tiết trời nóng nực cùng nhau hợp sức hối thúc Enris đến mức cậu phải bỏ dở công việc, sẵn sàng chấp nhận lời khiển trách của quản giáo để ra ngoài kiếm nước thì cậu thường kiếm một cây shawari nào đó mà ngồi xuống gốc, lấy ít nước cây và nghỉ ngơi. Shawari có những tán lá dày và rộng, rũ xuống tạo thành một ô dù xanh đem lại một khoảng bóng râm nhỏ nơi gốc, địa điểm nghỉ trưa lí tưởng của Enris và Hall. Trái với Enris, Hall không bao giờ uống thứ nhựa cây ấy, cậu ta nói nó có mùi khiến cậu buồn nôn mỗi khi đưa lại miệng, vì thế vào những hôm phụ mỏ đem nước đến trễ hoặc không đến, Enris thường nhường nước của mình cho Hall và uống nước từ thân cây.
Hall bằng tuổi Enris, 16 tuổi, cậu là một người mang vẻ tri thức, ham học hỏi, tất cả những quyển sách nghiên cứu của mẹ Enris để lại Hall đều đã đọc qua, dáng người cậu cao ráo, mảnh khảnh. Khác với hầu hết những người ở đây, Hall có một làn da trắng kì lạ, điều này khiến cho nhiều người mới gặp đều lầm tưởng cậu là một kẻ lười biếng, ít làm việc, nhưng Enris biết là không phải thế, Hall rất chăm chỉ, cậu thường được quản giáo khen ngợi và lấy làm gương cho những người khác. Hall thuộc kiểu người ít nói chuyện, nhưng lại nói rất nhiều mỗi khi tranh luận về một điều gì đó làm cậu hứng thú, và hầu hết là về những tài liệu sinh học mà cậu kiếm được từ Enris hay những bài báo mà cha Enris mang về. Ngoài những thứ ấy ra, cậu chẳng còn gì để đọc, để học, để tìm hiểu... Hall phải di tán khỏi quê nhà cùng cha mẹ từ năm lên 7 do cuộc tranh chấp thuộc địa giữa liên quân Sealliance (tổ chức đồng minh các quốc gia kề biển) và Giáo hội hợp quốc (tổ chức tôn giáo lãnh đạo của các vương quốc Trung Địa), 5 năm lưu lạc trên khắp các chiến trận, vào năm 12 tuổi, cha mẹ của Hall chết và cậu được đưa đến Miranest để làm việc, nơi cậu gặp Enris…
Enris dựa mình vào thân cây, lau mồ hôi lấm tấm trên trán, hớp một ngụm nhựa cây từ cái phễu bằng gỗ rồi cậu khẽ nhắm mắt nghỉ ngơi. Enris biết tên quản giáo hắc dịch, nửa người nửa trâu có thể bắt gặp và quở trách cậu bất cứ lúc nào nhưng cậu mặc kệ, chỉ vài chục phút nữa thôi là đến giờ nghỉ trưa, cậu sẽ bắt đầu công việc sớm hơn mọi người để bù vào khoảng thời gian nghỉ ngơi này, chí ít là cậu sẽ nói như vậy nếu bị quản giáo bắt gặp. Enris thường mơ mộng vẩn vơ mỗi lúc rảnh rỗi, một chút bận tâm về bài báo cậu đọc đầu tuần, một chút lo lắng về tương lai và cuộc sống của mình, một chút tưởng tượng về câu chuyện thần tiên cậu vừa nghĩ ra, tất cả cùng nhau chiếm hết tâm trí của cậu những lúc chân tay cậu ngơi nghỉ. Đêm nay các khu mỏ mới sẽ tiếp nhận thêm vài trăm tù binh, ba cậu sẽ có một ngày khá bận rộn với việc sắp xếp và giải quyết mớ sổ sách – trước đây cha Enris là một khảo cổ gia nghiệp dư, nhờ có chút kiến thức về toán học và sổ sách nên đã có một công việc nhàn hạ. Có lẽ tối nay chỉ có cậu và Hall ở nhà. Enris thở dài nhìn về một khoảng không vô định, cậu ngả mình xuống tấm bạt bằng da bò cũ kĩ trải trên mặt đất và vắt tay lên trán đánh một giấc ngắn.
“Enris! Enris dậy mau, ai cho mày ở đây giờ này hả?”
Enris giật mình tỉnh dậy, chẳng cần mở mắt cậu cũng đoán được tên quản giáo khó ưa đang trừng mắt nhìn cậu. Cậu nhíu mắt thở dài bằng điệu bộ mệt mỏi, trước mặt Enris là tên quản giáo to con với cặp sừng ngắn nhô lên hai bên trán, ánh mắt giận dữ của hắn đang nhìn cậu chằm chằm
“Chết tiệt, tôi vừa mới ngả lưng được một tí”
“Phải chăng tao nên để mày nằm đến hết ngày? Quay lại làm việc ngay tên oắt con!”
“Bình tĩnh nào Bott, chỉ còn vài chục phút nữa là đến giờ nghỉ trưa rồi, tôi….” – cậu nhoài người dậy, cố tránh vết thương trên bắp chân, nó không đau đến mức đấy nhưng cậu đang cố tỏ vẻ khó nhọc.
“Không nói nhiều, mày có đủ lí do này đến lí do khác để biện hộ cho cái thói lười nhác của mày” – tên quản nửa người nửa trâu bước quanh gốc cây cậu nằm, cái lưng còng trồi lên như bị tật khẽ nhấp nhô theo từng nhịp chân hắn – “Mau quay lại làm việc nếu không muốn trưa nay nhịn ăn” – hắn giơ cánh tay trông như chân ngựa nhưng có 4 ngón lên chỉ sát mặt Enris.
“Được rồi, được rồi,...” – Enris quấn cái thảm da cũ đã sờn hai bên mép lại – “Tôi sẽ tiếp tục công việc cho đến hết 5 phút nữa.... nặng nhọc đây!”
Tên quản giáo trừng mắt nhìn Enris, đôi mắt hắn to, đen ngầu như mắt một con trâu, một nửa bị che mất bởi những hàng lông mày dày, một tay cầm một cái roi da luôn luôn trực đánh, nếu không phải ba cậu lo việc sổ sách, sắp xếp, có chút chỗ dựa thì cậu đã bị hắn quất thẳng những hàng roi lên người rồi:
“Cái lũ không biết điều chúng mày, sắp tới lại có một đám nữa đến đây!” – nói xong hắn thở phì, cái vòng sắt trên mũi khẽ rung, rồi lại bằng cái tướng khập khiễng ấy hắn quay đi.
“Tên Mino* chết tiệt!” – Enris chửi thầm, cậu lề mề đặt tấm thảm da lên vai, lê bước tới cửa mỏ.
Tiếng kẻng báo giờ nghỉ vang lên...
Từ các cửa hầm, những con người với dáng vẻ cằn cực, mệt mỏi bước ra, ột vài thì nghỉ lại luôn trong hầm. Đám người tiến đến khu tập trung để nhận thức ăn rồi kiếm một bóng râm nào đó ngồi nghỉ. Chân tay họ lấm lem, bộ quần áo lao động rách rưới, sờn cũ, có thể thấy rõ vẻ mệt nhọc trên khuôn mặt nhem nhuốc của những con người này. Họ cầm túi thức ăn trên tay, chẳng ai buồn nói với ai câu nào, chỉ cặm cụi ăn cho mau rồi đặt mình xuống nghỉ. Lính canh đi lại xung quanh, để mắt đến những nhóm tụ tập đông hay những tên khó bảo. Ở một góc, Enris và đám bạn đang ngồi:
“Bọn da vàng đó dạt ra hai bên khi thấy thằng Jack tiến lại gần cầm máu cho thằng nhỏ da đen” Antheny kẻ một đường vô hình bằng ngón trỏ trên không trung “Và thậm chí, đứa ra tay còn rối rít giải thích cho Jack nghe”
Jack xua tay, đáp bằng chất giọng dày của mình: “Chẳng có gì to tát cả, bọn da vàng đó từng nhờ tao hòa giải nên mới có thể mua thuốc lá. Chúng nó có một sự tôn trọng nhất định dành cho tao. Và thằng ra tay chỉ là hiểu lầm, nó tưởng rằng đứa nhóc định trộm tiền của nó, về sau mới nhớ ra là nhét dưới lót giày.”
“Sao mày lại giúp thằng nhóc đó?” Antheny vuốt lọn tóc tím đang bết lại vì mồ hôi.
“Hai thằng anh trai của nó đến cầu cứu tao, bọn da đen chỉ có hơn hai chục đứa trong khu mỏ này nên tụi nó sợ đám da vàng ra mặt” Jack khẽ vặn người, mái tóc vàng dính trên trán xòa xuống mặt tô đậm vẻ mệt nhọc của Jack, đứa nhỏ người và yếu nhất trong bọn “Và đám da vàng là chúa làm liều”
“Sao bằng Enris của chúng ta?” Antheny huých vai Enris “Nó lại gây chuyện với lão Bott, và đó là lần thứ ba trong tuần rồi”
Jack không nói gì, chỉ chăm chú đợi bạn mình lên tiếng. Còn Antheny vừa nói, vừa nhặt miếng khoai còn sót lại trong túi thức ăn của người bạn.
“Con bò ấy, có ngày tao sẽ dạy lão một bài học” – Enris giơ nắm đấm lên không trung – “Rồi lão ta sẽ biết tay tao”
“Và lão sẽ đá đít mày như lần mày giễu cợt về cái sừng của lão” Antheny cười cợt “Sao mày không đơn giản là đừng chọc tức lão nữa? Làm việc của mình, nghỉ khi hết giờ, ăn khi đến xuất, ngủ khi đèn tắt, dậy khi kẻng kêu.”
Enris cau mày và quay mặt đi “Tao sẽ làm nhưng miễn là đừng ai thúc giục tao”
Một nhóm nhỏ cãi cọ bị quản giáo tách ra, đánh cho một trận, kẻ gây sự ôm cái đầu máu, nằm co ro, run lên bần bật dưới những đòn roi của lũ lính gác. Một vài ánh mắt tò mò trong ngắn ngủi rồi sớm thay bằng điệu bộ thờ ơ không quan tâm. Khi miếng khoai trôi khỏi khoang cổ, Jack nhìn Enris và cất tiếng hỏi:
“Mày ổn chứ Enris? Hall và bác Norman thế nào? Dạo gần đây tao thấy mày như có chuyện gì vậy”
“Không sao đâu, có lẽ là do chân tao vẫn chưa hết đau”
Jack gật đầu thể hiện rằng mình không nghi ngờ hay định hỏi thêm gì rồi khẽ vỗ lên vai Enris. Qua ánh mắt và dáng vẻ của bạn mình, Jack cảm nhận thấy Enris đang có một chút suy tư xen lẫn bất an.
“Nếu có chuyện gì hãy nói với bọn tao… Mày không đơn độc, luôn có Antheny, Hall và tao ở bên mày!” Jack khẽ nắm lấy vai Enris “Chúng ta là hội tứ kỵ sĩ bất tử mà anh bạn”
“Phải! Hội tứ kỵ sĩ bất tử” Enris cười và nhắc lại lời của bạn mình.
Cách đây 4 năm, hồi Hall mới vào Miranest. Cậu hay bị ức hiếp vì làn da trắng và thân hình mảnh khảnh nom giống quý tộc của mình. Trong khu của Hall, những tên thợ mỏ luôn bị đàn áp bởi lính gác thường bực tức lôi cậu ra xả giận. Enris không tham gia nhưng cũng không đủ dũng khí để bảo vệ Hall. Antheny khuyên Enris đừng nên dây vào. Trái với vẻ bất bình của Enris, Antheny chỉ thì thờ ơ với các vụ ẩu đả vì cậu đã quá quen, sau 2 năm làm việc ở mỏ đã rèn rũa cho cậu một quy tắc rằng không nên can thiệp vào việc của kẻ khác. Nhưng Jack là người đầu tiên thay đổi quan điểm này. Jack vào sau Hall vài tháng, khi thấy Hall liên tục bị gây sự, cậu đã đứng ra và lên tiếng. Kết cục là cả hai: kẻ thì gầy gò, người thì nhỏ con, bị tẩn cho thừa sống thiếu chết. Cứ đến giờ ăn là phải nhường phần ăn của mình, đến giờ nghỉ thì thay phiên đấm bóp cho bọn chúng, hễ bọn chúng bị quản giáo chèn ép là khi về sẽ lôi Hall và Jack vào góc khuất đánh. Một hôm khi chứng kiến Hall bị đánh chảy máu đầu, ngã khuỵa ở chỗ mình, Enris không kiềm được lòng liền ôm lấy chân kẻ ức hiếp, ngăn những cú đá từ hắn. Antheny gãi đầu, bất đắc dĩ phải lao vào can. Jack vừa về từ mỏ cũng cầm cuốc đến bảo vệ bạn mình. Cuộc xô xát khiến quản giáo và đám lính gác mỏ kéo đến. Trong một khoảnh khắc bắt được ánh nhìn của quản giáo, Antheny nắm lấy tay một tên ức hiếp đang cầm dao, kéo đâm vào eo mình. Vậy là kẻ cầm dao bị đưa đến khu khổ sai, đám bắt nạt bị chuyển một nửa sang chỗ khác, Antheny có cho mình vài ngày nghỉ vì vết thương bên hông, Jack và Hall không còn bị ức hiếp nữa. Bốn người từ đó thân với nhau thành một nhóm. Sau này mỗi lúc đám bạn ngồi nhắc lại chuyện cũ, Enris thường hỏi Antheny rằng sao không sợ mũi dao đâm sai hướng rồi bỏ mạng? Antheny chỉ vênh mặt vỗ ngực, bảo rằng mình là một kỵ sĩ bất tử. Jack ôm vai hai người bạn và tuyên bố rằng chúng ta là tứ kỵ sĩ bất tử trong truyền thuyết. Hall bó gối, nhoẻn miệng cười, trong lòng cảm thấy hết sức trân trọng tình bạn này.
Antheny đánh chén nốt phần thức ăn của Enris rồi cất giọng hỏi:
“Mà Hall đâu? Hai ngày nay tao không thấy bóng dáng nó”
“Đang phụ ba tao vụ sổ sách, nó được miễn làm ngày hôm nay”
“Sắp có một nhóm tù binh mới từ Vatherland đến đây phải không?” Jack tiếp lời và hạ dần giọng mình “Đó là một quốc đảo nghỉ dưỡng thuộc phe liên minh. Tao nghe được từ vài người là Giáo hội đã đánh chiếm nó thành công”
Đám bạn đưa mắt đảo quanh. Jack lấy lại âm lượng bình thường của giọng mình:
“Hall sáng dạ. Nếu không phải chôn thây ở đây, nó đã là một học sinh ưu tú ở một ngôi trường danh giá nào đó rồi...” – Jack nói, vẻ mặt sầu tư và cái điệu bộ của Jack thể hiện rõ vẻ trưởng thành so với đám bạn
“Nếu không phải làm nô dịch ở đây, tao nhất định sẽ lấy một cô vợ, xây một căn nhà gỗ, chăn một đàn dê và sống cuộc đời nhàn rỗi” – Antheny bĩu môi
“Một cô vợ mặc váy ngắn, đánh phấn trắng bệch, tô son nhiều đến mức đôi môi thâm như quả dâu hỏng, ý mày là vậy đúng không?” – Enris cười
“Không phải như mấy tờ báo mày được đọc đâu, những cô vợ ngoài kia, ở thành phố, họ xinh đẹp hơn thế nhiều. Ngày chưa vào đây, tao đã từng tận mắt thấy rồi. Mắt xanh long lanh, tóc vàng óng ánh, môi đỏ mềm, luôn chúm chím như trực chờ nói ra những điều cao sang và mỹ lệ. Còn da của họ trắng hồng, không phải dùng phấn đâu mà là tự nhiên” Anhtheny nhấn giọng từ tự nhiên “Họ sinh ra là vậy và sẽ luôn luôn vậy, nhà đẹp, đồ ăn ngon, học hành đàng hoàng, cưỡi ngựa đi săn vào thứ bảy, chủ nhật đi làm từ thiện”
Enris nhại lại giọng của Antheny để chế giễu “Nếu được ra khỏi đây, chắc việc đầu tiên tao làm sẽ là cưới một cô vợ tự nhiên như thế”
“Không không! Tao chỉ kể để mày biết thế nào là đẹp thôi chứ cuộc sống của họ phức tạp và kiểu cách lắm. Nếu được thì tao cũng muốn thử, nhưng một ngày thôi, tao dám chắc chỉ một ngày là mày sẽ ngán đến tận cổ, rồi sau đó tao sẽ quay về với ngôi nhà gỗ và đàn dê của tao”
Chắp hai tay sau gáy và ngả người, Jack nói chậm rãi từng từ một
“Nhưng vấn đề là “nếu” và nó sẽ mãi không bao giờ xảy ra khi chúng ta cứ mãi như thế này.”
Enris phóng ánh mắt về phía rừng cây shawari, lượm một viên sỏi trên mặt đất và giữ trong lòng bàn tay:
“60 năm!” – Enris trầm ngâm – “60 năm chưa phải một đời người nhưng nó cũng quá dài cho một đời người.”
Một tiếng nghỉ trưa trôi nhanh, mọi người quay lại hầm mỏ, tiếp tục làm việc đến khi trời tối.
Enris trở về nhà mệt mỏi, căn nhà gỗ nơi cha con cậu và Hall ở được dựng cạnh kho dụng cụ cũ của mỏ, cách biệt với khu nghỉ ngơi tập thể của công nhân trong mỏ, một phần vì những đống giấy tờ, sổ sách của cha cậu không thể để người khác tùy tiện đụng vào, phần khác là do căn nhà gần nơi cha cậu làm, tiện cho việc đi lại. Enris vứt túi đồ xuống góc rồi bật cái đèn fokal chạy bằng đá mặt trời lên, ánh sáng trắng của ngọn đèn chiếu tỏ cả căn nhà, nó không quá rộng, được ngăn làm 3 phòng, phòng làm việc của cha cậu, phòng ngủ cho cậu với Hall và một phòng lớn làm phòng khách. Thường ngày trước khi về nhà, Enris ghé qua khu bếp lấy 3 phần đồ ăn và một phần bồi dưỡng, hôm nay thì khác, cha cậu không về, còn Hall sẽ trễ hơn nên cậu ăn luôn ở nhà ăn tập thể.
Enris ngồi vào chiếc bàn gỗ tự đóng của mình, chán nản nhìn bóng của chân bàn kéo dài trên mặt sàn, mơ tưởng một điều gì đó, cậu nằm dài ra bàn, lấy tay gõ gõ lên bìa quyển sách rồi lật nó ra, đóng nó lại. Chỉ một lúc sau, cậu ngủ gục trên bàn trong cơn mệt mỏi.
Enris mơ, lại giấc mơ ấy, đã ba tháng nay, cứ thỉnh thoảng Enris lại gặp lại giấc mơ này: Trên mặt đất rải rác xác người, khói lửa giăng kín bốn phía. Tiếng gươm giáo chém vào nhau loảng xoảng, tiếng gào thét, kêu la của binh lính đan vào tiếng gầm rú của những con quái vật khổng lồ. Trên trời, từng vệt trắng kéo dài, mờ nhạt theo sau các tia lửa làm rực một khoảng không mù mịt khói, tất cả tạo thành một khung cảnh hỗn loạn kinh khủng. Trong làn khói lửa mở ảo, Enris thấy một dáng người to lớn dần dần xuất hiện, binh lính xung quanh bị đánh văng lên không trung, nát vụn thành nhiều mảnh, một người cao lớn khoác trên mình bộ đồ tu sĩ đen, tay cầm một cây trượng dài, tay kia đang lôi xác một con quái thú, dũng mãnh bước ra từ làn khói, người tu sĩ gầm lên, vung cánh tay khổng lồ ném con quái thú to xác ra phía đám lính đang lao lại, tay kia giơ cao, cắm cây trượng xuống đất một phát thật mạnh, những tia lửa bắn ra, mặt đất bị xé thành nhiều mảnh, một tiếng nổ lớn:
“UỲNH!!!”
Enris bật mình dậy trong cơn choáng váng, phải mất vài giây để cậu cảm nhận rằng đây là đời thực và tay chân này là của mình. Đến liền sau tiếng nổ là tiếng kẻng báo động inh ỏi. Cậu mở cửa ra ngoài, đằng xa, khuất sau khu mỏ là một vùng trời rực đỏ. Các tháp canh di động từ tứ phía, lê bốn cái chân bằng thép cao hơn hai chục thước, kéo dồn về phía xảy ra vụ nổ. Đám đuốc lập lòe trên tay bọn lính cưỡi ngựa như bầy đom đóm, ùa về phía những cột khói bốc lên từ đằng xa. Enris nheo mắt, một dáng người quen thuộc từ khu mỏ hoang cưỡi ngựa tiến về phía cậu, là Hall, Hall hét lớn:
“Tàu chở tù binh Vartherland bị tấn công! Nó vừa rơi xuống vùng mỏ cũ!”
Enris tự hỏi “Tàu chở tù binh? Những chiếc tàu bay khổng lồ của Giáo Hội đưa tù binh về Hải Địa, một trong số đó là vào Miranest?”
“Quân Liên Minh đã lên kế hoạch từ trước” – Hall nhảy xuống ngựa, chạy lại gần Enris
“Ba tớ đâu?”
“Bác Norman và những người khác bị lính gác đưa đến nơi trú ẩn rồi, tớ trốn thoát, cướp ngựa và đến đây báo cậu!”
“Là sao? Tại sao cậu phải trốn thoát” – Enris hỏi Hall
“Không còn thời gian, bác bảo ta phải đi theo quân Liên Minh!!!” – Hall nói gấp, đưa đôi tay mảnh khảnh kéo Enris về phía con ngựa.
Enris giật tay Hall:
“Chuyện quái gì thế Hall? Tại sao chúng ta phải đi theo quân Liên Minh? Còn ba tớ?”
Vẻ vội vàng trên nét mặt Hall vẫn hiện rõ:
“Bác đã biết trước chuyện này nhưng không thể trốn thoát cùng chúng ta! Bác bảo hai ta phải đi khỏi nơi này, đi cùng quân Sealliance và cậu có thể gặp lại mẹ mình!”
“Mẹ... mẹ tớ?”
Lòng cậu bỗng siết lại. Một phần sâu thẳm của tâm trí Enris khẽ mở, hình ảnh mờ nhạt của một người phụ nữ thoáng chốc hiện về. Dưới ánh đèn dầu yếu ớt, bà ấy cặm cụi ghi chép trên chiếc bàn gỗ ở góc phòng. Khi ánh sáng xanh lục lóe lên từ phía xa đồi lọt vào cửa sổ, bà ấy quay lại nhìn Enris, một khuôn mặt bị che mờ bởi thời gian chỉ còn lại các cảm giác mơ hồ. Enris nuốt khan:
“Mẹ...mẹ mình còn sống?”